Trong một dịp cùng vợ về thăm quê nội, chúng tôi có dịp làm chứng cho một người bạn cũ của tôi. Chuyến đi này chúng tôi chủ yếu dành thời gian để làm chứng về Chúa cho ba tôi. Nhưng những lời chuyện trò với người bạn cũ mới là điều làm tôi nhớ nhất.
Trước đó mấy năm, anh bạn này gọi báo cho tôi biết anh quy y cửa Phật. Lúc ấy tôi mới tin nhận Chúa. Tôi chỉ nghe anh nói và lặng đi mà không biết phải nói gì với anh.
Nghĩ về người bạn này, tôi và anh cùng quê nhưng quen nhau lúc đi học ở Đà Lạt. Sau đó, khi đi học Đại Học ở Sài Gòn thì mất liên lạc. Vài năm sau, qua một người bạn, tôi gặp lại anh ở Sài Gòn, cũng là lúc ba anh mới mất vì một chứng ung thư. Những ngày cuối đời, anh túc trực bên cạnh ba của mình, hằng ngày cõng ông đi dạo phố xung quanh bệnh viện. Trong lời kể của anh, tôi biết anh thương ông biết dường nào. Anh có một người bạn gái quen trong bốn năm đại học, hai người hứa sẽ làm đám cưới khi ra trường. Nhưng khi ra trường cô lại tiến đến với một người giàu có hơn anh do bố mẹ cô sắp đặt. Anh về quê năn nỉ bố mẹ cô nghĩ lại nhưng vô vọng. Anh là một nhà giáo nhưng ngán ngẩm với những vấn nạn gian lận, hối lộ, chạy bằng cấp. Có lần anh tìm tôi muốn tôi giúp anh triển khai một phần mềm tính điểm thi và kê khai học bạ của học sinh, cốt yếu để tránh những tiêu cực trong nhà trường. Nhưng tôi đành làm anh thất vọng, tôi không có khả năng giúp anh được. Tôi hiểu sau những gì trải qua, anh muốn tìm đến cửa Phật như một chốn thanh bình hoặc tìm cách trốn tránh thực tại đau khổ cũng là điều dễ hiểu.
Tôi và vợ đi qua cung đường đèo vòng vèo ở quê đến điểm hẹn gặp anh. Ngày trước anh cố công ăn học để làm thầy giáo, hôm nay gặp lại anh đã là thầy tu. Suốt cuộc trò chuyện tôi chỉ mong Đức Chúa Trời thương xót, mở mắt giúp anh hiểu những điều chúng tôi nói với anh. Nhưng vô vọng. Chúng tôi nói về Chúa, còn anh nói Phật. Tôi biết rằng những cuộc trò chuyện như vậy, có nói mãi cũng chỉ vô ích. Tôi gửi tặng anh hai cuốn sách của Hội Thánh và quyết định ra về.
Lời tâm tình cuối, anh bảo rằng trong anh có năng lượng tính dục cao, anh không kiềm chế nó được, từ khi anh làm theo Phật dạy anh khống chế nó được. Tôi hỏi anh làm sao mà khống chế được. Anh bảo triết lý Phật dạy chuyển hoá năng lượng tính dục (cả tham, sân, si) thành trí tuệ bằng cách niệm phật, thiền,… Anh hỏi tôi người theo Chúa thì làm cách nào. Tôi nói Chúa dạy người nam phải có vợ, người nữ phải có chồng. Anh ngạc nhiên: “nếu đơn giản như vậy thì còn nói làm gì!”. Tôi bảo chỉ đơn giản vậy thôi!
Mỗi lần tôi nhớ về người bạn này, tôi buồn cho anh nhưng lại thỏa lòng với điều mà tôi học được qua những lời cuối nói với anh: Lẽ Thật thật đơn giản.
Qua nhiều kinh nghiệm trong Chúa, tôi nhận thấy những Lời hướng dẫn con dân Ngài đến một đời sống vinh hiển luôn trực tiếp và rõ ràng. Để đưa ta vào sự sống đời đời , Ngài phán “hãy giữ các điều răn”; để không có sự gì xấu xảy đến với ta, Ngài phán “đừng phạm tội nữa”; khi ta bối rối, Ngài phán “Ta ban cho các ngươi sự bình an của Ta”; khi ta sợ, Ngài phán “Ta Là, đừng sợ”; khi ta mất phương hướng, mục đích của đời mình, Ngài phán “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống”,… Phải công nhận rằng cần có một khoảng thời gian đời đời để suy ngẫm sự sâu nhiệm trong những Lời ấy nhưng không có một Lời nào là khó hiểu. Tôi biết cuộc sống sẽ thật dễ dàng với những người đơn sơ tiếp nhận những Lời phán, nhưng cũng sẽ thật “rối rắm” với những người khước từ những Lời ấy. Bởi vì đơn giản Lời ấy chính là Sự Sống.
Tạm biệt bạn, chúng tôi ra về, cung đường đèo mù sương và cái lạnh giá bên ngoài làm lòng trĩu nặng thêm. Cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một người vợ bên cạnh trong lúc ấy. Tôi biết Chúa luôn ở cùng dõi theo từng bước chân mình đi nhưng có lúc tôi cũng cần lắm một người, không phải nói thêm lời gì mà chỉ cần… ở bên cạnh mình!
Trong ân điển của Đức Chúa Jesus Christ.
Nguyễn Ngọc Tú.